7+ Bệnh trên Lúa giai đoạn đòng trổ, Cách chăm sóc lúa giai đoạn làm đòng và trổ chín
Tùy từng giống, mà thời gian lúa trổ bông có xê dịch, chúng ta cần quan sát kỹ hoặc dự đoán về loại sâu bệnh phát sinh. Từ đó, kịp thời có những biện pháp phòng ngừa để lúa khỏe mạnh và đạt năng suất tốt nhất.
Lúa làm đòng là gì?
Lúa làm đòng hay còn gọi quá trình từ phân hóa đòng đến đòng già, là quá trình phân hoá và hình thành cơ quan sinh sản, đóng vài trò ảnh hưởng trực tiếp đến năng suất lúa.
Trong thời kỳ này, cây lúa có nhiều thay đổi về hình thái rõ rệt như màu sắc, hình dáng lá và cây, sinh lý, cùng khả năng chống chịu ngoại cảnh…
Quá trình này diễn ra tại đỉnh điểm sinh trưởng của các nhánh cây lúa, có thể trông thấy đòng lúa bắng mát thường khi đòng đã dài khoảng 1mm, người ta gọi là cứt gián.
Sau khi hình thành bông nguyên thủy thì bước sang giai đoạn vươn dài kết hợp với sự hình thành bông, gié và hoa hoàn chỉnh. Bây giờ chiều dài của đòng có thể đạt 6 đến 12cm, bằng nửa chiều dài của bông về sau. Đòng lúa lớn dần, dần phình to và phát triển cả về chiều dài.
Giai đoạn làm đòng kết thúc khi đòng già và chuẩn bị trỗ bông. Từ giai đoạn bông nguyên thuỷ, cây lúa còn hình thành thêm ba lá nữa, không kể lá đòng.
Hướng dẫn cách nhận biết lúa đang làm đòng
Thời gian lúa trổ bông là bao lâu?
Khi đòng đã hoàn chỉnh thì bước sang giai đoạn trỗ. Thời gian bông lúa bắt đầu thoát ra khỏi bẹ lá đòng cho tới thoát hoàn toàn kéo dài 4-6 ngày.
Thời gian trỗ càng ngắn càng thì có thể tránh được các điều kiện thời tiết bất lợi, do đó nhiều người tìm cách đẩy nhanh quá trình này.
Song song quá trình trỗ bông, có những giống vừa nở hoa vừa thụ phấn ngay, nhưng lại có giống phải chờ trỗ xong mới bắt đầu nở hoa thụ phấn.
Giai đoạn nở hoa, thụ phấn và thụ tinh:
Trên một bông, những hoa nở trước thường ở đầu bông và đầu gié, các hoa ở gốc bông đa số nở cuối cùng.
Trình tự nở hoa này có liên quan đến trình tự vào chắc. Những hoa ở gốc bông do nở sau nên vào chắc muộn, khi gặp điều kiện bất lợi thường dễ bị lép và có khối lượng hạt thấp.
Hoa nở rộ nhất thường vào thời điểm 8 đến 9 giờ sáng khi gặp điều kiện thời tiêt thuận lợi.
Khi nở hoa phơi màu, vỏ trấu mở ra, bao phấn vỡ giúp hạt phấn rơi vào đầu nhụy, ống phấn vươn dài tới phôi nang, rồi vỡ ra và giải phóng hai hạch đực.
Trong đó một hạch kết hợp với trứng mà phát triển thành phôi, hạch còn lại kết hợp với hạch thứ cấp mà phát triển thành phôi nhũ.
Có thể phân biệt rõ các bộ phận của phôi sau 8-10 ngày như trục phôi, mầm và rễ phôi. Phôi phát triển xong và năm dưới bụng hạt sau 2 tuần.
Phải mất một tuần để toàn bộ hoa trên cùng một bông nở hết, sau 10 ngày trỗ là tất cả hoa đều được thụ tinh và bắt đầu hình thành hạt. Hoa nào không được thụ tinh thì bị lép.
Lúa trổ đều nên xịt thuốc gì?
Nhiều bà con thắc mắc rằng lúa đang trổ phun thuốc gì cho hiệu quả, thực tế không phải cứ tùy tiện phun đủ loại thuốc mà hiệu quả được, vừa mất công lại lãng phí và gây ô nhiễm môi trường.
Theo chuyên gia, cây lúa đang ở trong thời kỳ trổ bông, thì chúng ta cũng phải dựa xem là nó có loại sâu bệnh gì thì chúng ta mới nên phun. Có thể theo tư vấn từ cán bộ khuyến nông địa phương, người ta dự báo dự tính loại sâu bệnh sẽ xuất hiện để phun phòng ngừa.
Thời kỳ lúa trổ bông thường có sâu đục thân, bệnh bạc lá, sâu cuốn lá, rầy nâu, bệnh lem lép hạt… Nếu rầy nâu xuất hiện có khả năng gây cháy rầy thì cần phun trừ gấp, sâu đục thân phải phun phòng từ lúc chưa trỗ (miền Nam ít bị sâu đục thân hơn miền Bắc), bệnh bạc lá xuất hiện nhiều vào mùa mưa bão gây hại lá đòng.
Các bệnh trên lúa giai đoạn đòng trổ
Sau đây, để thuận tiện tư vấn bà con, Fao sẽ liệt kê từng loại bệnh và đề xuất loại thuốc phun cho phù hợp.
1. Bệnh đạo ôn cổ bông, cổ gié
Vết bệnh trên cổ lan ban đầu là châm nâu, sau thành vết nâu hình khum theo chiều cong từ giữa cổ lá với phiến lá. Cổ lá bị bệnh khiến toàn lá tái xanh, xám, khô lụi và gãy gục xuống.
Vết bệnh trên đốt thân lúc đầu là đốm nhỏ màu nâu, sau lớn rộng ra thành một vành tròn bao quanh đốt thân khiến cho thân tóp lại, màu nâu đen.
Vết bệnh trên cổ bông, cổ gié ban đầu là đốm nhỏ, sau lan theo chiều dài làm cả đoạn cổ bông, có màu nâu xám, khô tóp lại, gây tình trạng bông bạc nếu nhiễm bệnh sớm ngay thời gian trổ. Còn nếu bị muộn thì bị lép, lửng, dễ gảy cổ bông, cổ gié làm giảm năng suất.
Bệnh đạo ôn do nấm Pyricularia oryzae Cav gây ra, lan truyền bằng bào tử phát tán qua gió, xâm nhập vào cổ lá, phiến lá đòng, cổ bông, cổ gié. Với độ ướt lá 4 đến 5 giờ trong một đêm, bào tử nấm bệnh sẽ hình thành giác bám và nãy mầm tạo ra vết bệnh mới.
Nhiệt độ thích hợp để bệnh phát sinh phát triển từ 20 – 30oC, nhiệt độ tối thích 22 – 28 oC, ẩm độ >90% (trời âm u, mưa nhỏ hoặc mưa phùn).
Bệnh gây hại trên hầu hết các giống, khi bón phân không cân đối hoặc thừa đạm, đặc biệt hại nặng một số giống như VN10, P6, HC95, IR38…
Để phòng trừ bệnh đạo ôn hiệu quả, khi lúa chuẩn bị trổ bông gặp điều kiện thuận lợi như gió mùa Đông bắc, ngày nắng đêm sương, mưa phùn, mưa rào… cần tiến hành phun các loại thuốc có hoạt chất Isoprothiolane, Tricyclazole, Fenoxanyl + Tricyclazole… như Beam, Map Famy, Filia… Thời gian phun thích hợp nhất là trước khi lúa trổ 5 – 7 ngày. Những bị nhiễm bệnh nặng cần tiến hành phun lần 2 khi lúa đã trổ thoát hoàn toàn.
2. Bệnh bạc lá vi khuẩn
Bệnh này do vi khuẩn Xanthomonas Oryzae gây ra, phát tán theo gió và nước xâm nhiễm vào lá lúa qua khí khổng, thuỷ khổng ở trên mút lá, mép lá, nhất qua vết thương cơ giới trên lá lúa.
Khi khi vi khuẩn tiếp xúc với bề mặt có màng nước, chúng dễ dàng di động xâm nhập vào bên trong qua vết thương hoặc các lỗ khí, nhân lên về mặt số lượng và theo các bó mạch dẫn lan rộng đi.
Bệnh thường lây lan mạnh nhất sau các trận mưa dông, nguồn bệnh thường tồn tại trong nước, đất, hạt giống lúa và cả cỏ dại…
Vết bệnh lúc đầu có màu xanh đậm, xuất hiện trước tiên ở đầu lá hoặc hai bên mép lá, rồi lan dần vào phiến lá. Gặp nắng vết bệnh héo đi, khiến khô trắng từng vệt từ đầu lá kéo dài dọc theo mép lá, có hình lượn sóng màu vàng ở rìa vết bệnh, mô bệnh xanh tái, vàng lục, lá nâu bạc, khô xác.
Khi bệnh nặng phiến lá bị khô trắng tận 60 – 70% diện tích hoặc toàn bộ. Vào sáng sớm hoặc khi điều kiện thời tiết ẩm, trên vết bệnh thường xuất hiện những giọt dịch vi khuẩn màu trắng đục, khô thì có màu nâu hoặc vàng, hình cầu li ti.
Khi bệnh bùng phát thành dịch, đặc biệt ở giai đoạn làm đòng tới trỗ bông thì cây lúa rất dễ bị nghẹn đòng, bông bạc, lép nhiều hạt gây giảm năng suất tới 70%.
Để phòng ngừa, cần thường xuyên thăm đồng để phát hiện kịp thời, đặc biệt chú ý sau các trận mưa giông. Khi phát hiện bệnh phải dừng bón tất cả các loại phân cũng như thuốc kích thích sinh trưởng.
Tiến hành xử lý ngay bằng một trong các loại thuốc như Totan, Map Lotus… hoặc phun thuốc chứa kháng sinh Streptomycin hoặc Xanthomic, Acid Oxolinic, Sasa…
3. Rầy nâu, rầy lưng trắng
Rầy chích vào thân và hút nhựa làm cho cây vàng úa, mật độ cao ây cháy rầy, ban đầu là từng đám, sau thì lan rộng ra cả ruộng, thận chí cả cánh đồng nếu không phòng trừ kịp thời.
Ngoài việc làm giảm năng suất, rầy lưng trắng còn là môi giới gây truyền bệnh lùn sọc đen.
Để xử lý tốt đối tượng sâu hại này trong giai đoạn lúa làm đòng, trổ và vào chắc thì cần thăm đồng thường xuyên, nếu có rầy xuất hiện ở mật độ cao từ 700 – 1000 con/m2 cần tiến hành phun thuốc ngay một trong số thuốc như: Applaud, TT-Led 70WG, Chess, Difluent…
Nếu rầy non tuổi 1, tuổi 2 cần dùng hỗn hợp trừ rầy nội hấp, tiếp xúc hoặc kết hợp cả 2 để phun, chú ý phải đáp ứng đủ nước 30-40 lít/sào và phun vào gốc lúa.
4. Bệnh khô vằn
Bệnh khô vằn gây hại nhiều ở các bộ phận như như bẹ lá, phiến lá và cổ bông. Tại lá và bẹ lá, vết bệnh lúc đầu là hình bầu dục, màu xám nhạt hoặc lục tối, sau thành vết vằn da hổ, dạng đám mây. Nếu bệnh nặng, cả bẹ và phần lá phía trên đều chết lụi.
Vết bệnh ở cổ bông chủ yếu là vết kéo dài bao quanh cổ bông, có màu xám loang ra ở hai đầu vết, phần giữa vết thì màu lục sẫm co tóp lại.
Bệnh khô vằn phát sinh mạnh tốc độ lan nhanh ở điều kiện nhiệt độ cao từ 24 – 32oC với ẩm độ bão hoà hoặc lượng mưa cao
Sự phát triển của bệnh phần nhiều cũng do chế độ nước và phân bón trên đồng. Bón phân đạm nhiều và bón đạm tập trung thúc đòng khiến bệnh phát triển mạnh hơn. Bón nhiều lần cũng khiến cho mức độ bị bệnh cao. Bón kali có khả năng làm giảm mức độ nhiễm bệnh của cây.
Phòng trừ bệnh khô vằn cần có biện pháp tiêu diệt nguồn bệnh trong đất cả ngay sau thu hoạch và quản lý kỹ thuật trồng trọt thâm canh thích hợp.
Cần tiến hành cây sâu để vùi lấp hạch đất, phối hợp với các biện pháp gieo cấy đúng thời vụ, bảo đảm mật độ hợp lý, bón phân cần đúng tỷ lệ, tránh bón tập trung đạm đón đòng, có thể phối hợp thêm tro bếp và Kali để tăng cường tính chống bệnh của cây.
Ngoài ra, hệ thống tưới tiêu cần chủ động và không để mức nước quá cao trong trường hợp bệnh lây lan mạnh.
5. Bệnh cháy bìa lá do vi khuẩn
Sử dụng thuốc TT Biomycin 40.5WP để phun phòng và trị. Loại thuốc này cũng khá hiệu quả trong việc phòng trị bệnh lép vàng.
6. Bệnh đạo ôn trên lá
Sử dụng thuốc Tri 75WG hoặc TriO Super 70WG.
7. Bệnh lem lép hạt
Dùng thuốc TT Over 325SC là một lựa chọn rất thích hợp. Ngoài lem lép hạt, TT Over 325SC còn hữu hiệu trong phòng trị một số bệnh hại khác như vàng lá chín sớm và đốm vằn.
Phòng ngừa bệnh hại giai đoạn lúa trổ chín
Bên cạnh các giải pháp bên trên, bà con có thể kết hợp dùng chất điều hòa sinh trưởng thực vật Plastimula 1SL để tăng cường sức sống, giúp cây lúa khỏe mạnh, tăng sức đề kháng, sức chống chịu và dễ dàng vượt qua áp lực dịch bệnh cũng như ngăn chặn biểu hiện của bệnh virus.
Plastimula 1SL còn giúp bộ rễ lúa khỏe mạnh và dễ hấp thu dinh dưỡng tốt, thúc đẩy quá trình phân hóa đòng cho đòng lúa to và kích thích cây lúa trổ rộ.
Phun thuốc hoá học phòng trừ bệnh mang lại hiệu quả khi bệnh mới phát sinh tại những bẹ lá già, lại phải được phun tiếp xúc tới tầng lá dưới của cây kết hợp với rút cạn nước trên đồng ruộng.
Ngoài các loại sâu bệnh trên, ở các giai đoạn trước, trong, sau trổ và cả trổ chín… cây lúa còn bị nhiều lại sâu bệnh hại khác tấn công. Vì vậy, bà con chú ý quan sát đồng ruộng thường xuyên để kịp thời có biện pháp xử lý và phòng trừ sớm.